Tại sao cần xưng tội với linh mục?
Đôi khi những người bạn Tin Lành, hay tôn giáo bạn, và thậm chí từ những người bạn Công Giáo hỏi tôi rằng “Tại sao phải ta xưng tội của mình với một linh mục, trong khi đó ta có thể thú nhận tội của chúng ta một cách trực tiếp với Chúa?”
Thật vậy, đa phần người Công giáo đều đã nghe những thắc mắc như thế, và thật khó để đưa ra câu trả lời thuyết phục nếu như ta không hiểu tầm quan trọng của bí tích hòa giải (hoặc xưng tội).
Thực tế, một số nhà phê bình Tin Lành dựa trên Kinh thánh cho tuyên bố rằng chúng ta chỉ nên xưng tội khi cầu nguyện riêng với Chúa, như trong thư 1 của Thánh Gioan, câu 9: “Nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính.” Họ có thể sử dụng câu Kinh Thánh này như là một bằng chứng để bác bỏ Bí tích Hòa giải của người Công giáo và nói rằng: “Là một tội nhân, tôi rất vui vì chúng ta có thể trực tiếp đến với Chúa để được tha thứ, vào bất kỳ ngày nào, trong bất kỳ năm nào. Chúng ta không phải đến một nhà thờ nào, hay phải gặp một linh mục nào để được tha tội.”
Tôi không bác bỏ niềm tin của họ, nhưng muốn chúng ta nhìn thấy những thiếu sót khi họ dựa vào câu Kinh Thánh này để bác bỏ bí tích mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta để được tha tội.
Trước hết, Hội thánh Công giáo đồng ý với quan điểm rằng “ Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội”, trong Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo (GLHTCG) nói rằng “Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội cho con người (x. Mc 2,7). Là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su tự khẳng định: “Con Người có quyền tha tội dưới đất” (Mc 2,10), và Người thực thi quyền ấy : “Tội con đã được tha” (Mc 2,5; Lc 7,48)” (GLHTCG số 1441). Điểm mà tôi không đồng ý là, như Sách Giáo lý tiếp tục nói, “Hơn nữa, nhân danh quyền Thiên Chúa, Người ban quyền tha tội cho một số người (x.Ga 20,21-23) để họ thực thi nhân danh Người”.
Vì thế, Thư thứ nhất của Thánh Gioan 1:9 không bác bỏ khái niệm xưng tội theo bí tích, bởi vì câu này không nói rằng chúng ta chỉ nên xưng tội khi cầu nguyện riêng với Chúa. Trong 1 Gioan 1:9 đề cập đến việc “xưng tội”—và không nói chúng ta nên xưng tội với ai hoặc như thế nào. Do đó, thật sai lầm nếu người Công giáo nghĩ rằng “vì chỉ có Chúa mới có thể tha tội, nên chúng ta phải xưng tội trực tiếp với Chúa, không qua bất kỳ người trung gian nào (linh mục), và chỉ khi đó chúng ta mới được tha thứ”.
Trong cuốn giáo lý Didache[1] đưa ra lời chỉ dẫn sau đây cho các tín hữu: “Trong các buổi nhóm họp, anh chị em hãy xưng thú những xúc phạm của mình với Hội Thánh, và đừng tới cầu nguyện với lương tâm xấu xa. Đó là con đường sự Sống.” (4:14). Khuyến khích các tín hữu thú nhận những tội lỗi—Tương tự như thư của Thánh Gia-cô-bê đã dạy (câu 16), “Hãy xưng tội với nhau và cầu nguyện,” v.v. Các học giả có xu hướng xác định niên đại của I Gioan được viết vào cuối những năm 90 sau Công nguyên và Didache được viết cùng thời điểm hoặc thậm chí sớm hơn. Do đó, thật hợp lý khi kết nối lời dạy của Thánh Gioan “xưng tội” với bối cảnh xưng tội công khai trong Giáo hội sơ khai được mô tả trong Didache.
Trong cuốn The Epistles of John, cha Raymond Edward sau khi liệt kê việc xưng tội công khai trong Cựu Ước mà Gioan đang ám chỉ đến (Lê-vi 5:5-6, Châm-ngôn 28:13, Đa-ni-en 9:20), cha viết, “ Tất cả những điểm tương đồng và bối cảnh được đưa ra cho đến nay đều gợi ý rằng cách diễn đạt của Thánh Gioan đề cập đến một lời xưng tội công khai hơn là một lời xưng tội riêng tư của một cá nhân với Thiên Chúa”[2].
Sách Giáo lý nói rằng mặc dù các kỷ luật liên quan đến bí tích xưng tội đã thay đổi theo thời gian (xưng tội công khai trong Giáo hội chuyển sang xưng tội riêng với một linh mục vào thế kỷ thứ bảy), bí tích vẫn luôn duy trì một cấu trúc cơ bản nhất định. Cụ thể, bí tích bao gồm việc tội nhân bày tỏ sự ăn năn về tội lỗi của mình và Thiên Chúa, làm việc thông qua các thừa tác viên của Giáo hội, chữa lành tội nhân và tái lập họ trong sự hiệp thông của Giáo hội với thân thể Chúa Kitô (GLCG 1447-1448).
Đoạn duy nhất trong Tân Ước hướng dẫn các Tín hữu xưng tội là Gia-cô-bê 5:16, nói rằng: “Anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực.”
Từ được dịch là “xưng nhận” trong đoạn văn này là exomologeó, và mặc dù nó ám chỉ đến việc xưng nhận lời khen ngợi hoặc tạ ơn trực tiếp với Đức Chúa Trời (Mátthêu 11:25, Lu-ca 10:21, Rô-ma 14:11), nhưng nó không bao giờ đề cập đến việc xưng nhận tội lỗi với Chúa. Giống như homologeó, động từ này chủ yếu mô tả những lời thú nhận hoặc tuyên bố công khai với người khác (ví dụ: Lu-ca 22:6, Công vụ 19:8, Rô-ma 15:9 và Phi-líp-phê 2:11, mặc dù câu cuối cùng này cũng có thể đề cập đến việc thú nhận niềm tin trong Chúa Giêsu trực tiếp với Thiên Chúa cũng như với người khác.
Gia-cô-bê nói trong 5:14-15 rằng nếu một người bệnh được các kỳ mục xức dầu (tiếng Hy lạp, presbuteroi, từ đó chúng ta lấy từ tiếng Anh là Priest – linh mục), thì tội lỗi của người đó sẽ được tha. Bối cảnh trong Thánh Gia-cô-bê rất rõ ràng: Chỉ một mình Thiên Chúa cứu người bệnh và tha thứ cho người tội lỗi, nhưng Thiên Chúa đã chọn sử dụng những người trung gian là con người—các linh mục—để cử hành các bí tích như xức dầu cho người bệnh và hòa giải.
Linh mục – người trung gian của thiên Chúa
Trong Cựu Ước tiết lộ rằng: ngay từ những ngày đầu tiên Đức Chúa Trời tương tác với con người mà Ngài tạo dựng, Ngài đã chọn nói chuyện và làm việc thông qua những người được tuyển chọn kỹ lưỡng thay mặt Ngài để truyền tải thông điệp của Ngài cho con người. Dĩ nhiên, Chúa không cần phải làm điều này. Nhưng vì những mục đích riêng của Ngài—điều mà chúng ta có thể thấy là bí ẩn—Ngài đã chọn làm như vậy. Những người được Thiên Chúa chọn như Áp-ra-ham, Nô-ê, Mô-sê, và tất cả các ngôn sứ, cho đến Gioan Tẩy Giả. Chúa đã chọn truyền đạt ý muốn của Ngài qua họ, thực hiện ý muốn của Ngài qua họ và thực hiện những công việc vĩ đại qua họ. Họ trở thành những người trung gian của Ngài.
Có thể, nhiều nhiều người dựa trên 1 Ti-mô-thê 2:5 nói rằng: chỉ có một Thiên Chúa, và chỉ có một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là Đức Giêsu Kitô… tất nhiên là đúng. Có một Đấng Trung Gian (viết hoa) giữa Thiên Chúa và loài người: Chúa Giêsu. Không một người Công giáo nào được dạy giáo lý phủ nhận điều này.
Tuy nhiên, với lòng thương xót và sự hạ mình khôn lường của Ngài, Chúa Giêsu đã chọn kết hợp chúng ta với chính Ngài – và thậm chí còn cho phép chúng ta tham gia vào sự hòa giải của Ngài. Đó không phải là sự hòa giải của chúng ta—mà là của Ngài, đã ân cần ban cho chúng ta.
Linh mục hôm nay là người được thông phần sứ vụ của Đấng Trung Gian, Đức Giêsu Kitô, và là cánh tay nối dài để chuyển thông ân sủng Thiên Chúa tới đoàn chiên qua các bí tích àm Ngài đã thiết lập.
Sự trung gian khiêm tốn của các linh mục sẽ không tồn tại và không có bất kỳ hiệu quả nào nếu không có một Đấng Trung gian đích thực duy nhất giữa Thiên Chúa và con người – Chúa Giêsu – Đấng biến điều đó thành hiện thực. Đức Chúa Trời “giao phó” quyền tha tội – đây là quyết định của Chúa Nhân Lành
Linh mục hành động “in persona christi”
Linh mục là người tiếp nối sứ mệnh của Chúa Giêsu và hành động “trong con người của Chúa Kitô trong các bí tích. Khi một tội nhân tham gia Bí tích Giải tội và nhận được sự xá tội từ linh mục, thì chính Thiên Chúa là Đấng tha thứ – chứ không phải chính linh mục.
Bí tích Giải tội là một thừa tác vụ được chính Chúa Giê-su trao phó, khi các Tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng cho thế giới, các ngài làm điều đó chủ yếu qua việc giảng dạy và qua việc tha tội.
Các Tông đồ đã được nhận thừa tác vụ tha tội từ Chúa Kitô; Chúa Kitô tha thứ tội nhân qua các Tông Đồ và Giáo Hội.
“…Người Công giáo không nói tội lỗi của mình với một linh mục “nhưng với Thiên Chúa”, mà với Thiên Chúa thông qua một linh mục, được Chúa chúng ta bổ nhiệm làm một “alter Christus”, hay “một người đại diện chính thức cho Chúa Kitô.”
Chúng ta phải nhắc lại rằng: Đức Giê-su là Con Thiên Chúa “Con Người có quyền tha tội dưới đất” (Mc 2,10), và Người thực thi quyền ấy : “Tội con đã được tha”. Và chính các tông đồ và những người kế vị được giao phó thừa tác vụ hòa giải (xem 2 Cô-rin-tô 5:18)[3], và Chúa Giêsu rõ ràng đã trao cho các tông đồ quyền không chỉ rao giảng về sự tha tội, mà còn thực sự tha tội hoặc cầm giữ tội lỗi (Gioan 20:23)[4] [5].
Sách Giáo lý nêu rõ:
Quyền và nhiệm vụ tha tội được trao cho các tông đồ và hiệp nhất với người đứng đầu (Mátthêu 16:18-19) “Thầy sẽ ban cho con chìa khoá Nước Trời. Những gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; những gì con tháo cởi dưới đất trên trời cũng tháo cởi” (Mt 16,19). “Nhiệm vụ cầm buộc và tháo cởi đã được ban cho thánh Phê-rô cũng được ban cho các tông đồ hiệp nhất với thủ lãnh (Mt 18,18; 28, 16-20) ” (x. LG 22,2). “Cầm buộc và tháo cởi nghĩa là ai bị các tông đồ loại trừ khỏi sự hiệp thông với Hội Thánh, cũng không được hiệp thông với Thiên Chúa; ai được hiệp thông trở lại, cũng được thông hiệp lại với Thiên Chúa. Giao hòa với Hội Thánh không thể tách biệt khỏi giao hòa với Thiên Chúa.” (GLHTCG 1444-1445).
Tất nhiên, để các tông đồ biết liệu ai đó có cần hòa giải với Đức Chúa Trời hay tội lỗi của người đó có nên bị giữ lại hay không, họ phải biết tội lỗi của người đó là gì. Ngoại trừ một số loại mặc khải từ Chúa, kiến thức này chỉ có thể đến từ một người thú nhận tội lỗi của mình một cách nói ra, hay cái được gọi là xưng tội bằng tai.
Người Công giáo hết lòng đồng ý rằng chúng ta nên xưng tội trực tiếp với Thiên Chúa bất cứ khi nào chúng ta cảm thấy tội lỗi (GLHTCG 1458). Bộ Giáo luật (CIC)[6] mô tả các tình huống trong đó một người tìm kiếm sự tha tội ngoài bối cảnh xưng tội:
Người nào ý thức mình đang mắc tội trọng thì không được cử hành Thánh Lễ và cũng không được rước Mình Thánh Chúa, nếu không nhận lãnh bí tích Sám Hối trước, trừ khi có một lý do nghiêm trọng và không có dịp để xưng tội, trong trường hợp này, người ấy phải nhớ rằng mình phải ăn năn tội cách trọn, trong đó bao gồm việc quyết tâm xưng tội sớm hết sức. (916).
Một hành vi ăn năn hoàn toàn (tức là đau buồn vì tội lỗi vì yêu mến Thiên Chúa) là đủ để đảm bảo được tha tội. Nếu một người tìm kiếm bí tích xưng tội nhưng chết trước khi đến đó, người ấy vẫn có thể được cứu nhờ ước muốn chối bỏ tội lỗi và tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, cũng giống như bản chất hiệu quả của phép rửa tội theo ước muốn không vô hiệu hóa nghĩa vụ thông thường là được người khác làm phép rửa bằng nước, bản chất hiệu quả của việc thú nhận tội lỗi trực tiếp với Chúa không vô hiệu hóa nghĩa vụ bình thường mà chúng ta phải tìm kiếm một linh mục của Chúa. Giáo Hội có thể cử hành bí tích hòa giải một cách thành sự.
Một cảm nghiệm khác khác
Chúng ta có thể dừng lại một chút, cảm nghiệm Bí tích Giải tội theo một cách rất con người để hiểu hơn sự thiêng liêng của bí tích gải tội. Bạn hãy thử nghĩ mà xem: nếu một ngày nào đó bạn làm điều gì có lỗi với một người mà bạn yêu quý: có thể là ông/bà, cha/mẹ, bạn bè thân thiết…và khi bạn nhận ra bạn đã sai và đến xin lỗi họ, bạn có muốn họ giữ im lặng trước lời xin lỗi của bạn không? Hay bạn muốn nghe họ nói với bạn rằng: “tôi tha lỗi cho bạn” hoặc bằng một cử chỉ nào đó thể hiện sự tha thứ mà bạn có thể cảm nhận đươc như một cái ôm, một cái hôn hay một cái bắt tay…, điều đó sẽ làm cho chúng ta cảm thấy tốt hơn là sự im lặng. Rõ rằng, con người luôn mong muốn tìm kiếm dấu chỉ hữu hình của Thiên Chúa để có thể cảm nghiệm rõ hơn sự hiện diện của Ngài qua những giác quan của con người. Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng thấu hiểu mọi tâm tư của con người, qua sự hiện diện trực tiếp của linh mục trong tòa giải tội, Thiên Chúa ta tội cho chúng ta theo cách mà chúng ta có thể cảm nghiệm được qua giác quan của chúng ta. Bởi vì không dễ gì tất cả chúng ta đều có thể nghe được tiếng nói của Thiên Chúa khi ta cầu nguyện hay nói chuyện trực tiếp với Ngài, chúng ta cần một người trung gian – linh mục- trong tòa giải tội, qua những linh mục ta cảm nhận sự tha thứ hữu hình của Thiên Chúa.
Vì thế, dù một số người cho rằng Chúa Giê-su đã đi một bước quá xa. Bởi vì Ngài đã đi và ban cho một con người quyền tha tội hoặc cầm giữ tội lỗi. Họ có thể không thích ý tưởng này, nhưng nếu chúng ta là Chúa, chúng ta sẽ chọn cách tha thứ theo cách khác? Vì vậy, nếu như chúng ta từ chối việc xưng tội với linh mục, điều này giống như những người anh em Do Thái của chúng ta, đã từ chối Đức Giê-su khi họ kinh hoàng và từ chối trước người đàn ông đến từ Nazareth – tuyên bố tha tội.
Nhưng Chúa làm điều Ngài muốn chứ không phải điều chúng ta nghĩ Ngài nên làm.
Nếu bạn thấy điều này khó tin, sẽ rất hữu ích khi đọc Lời Giải Tội do linh mục đọc:
“Thiên Chúa là cha hay thương xót, đã nhờ sự chết và sống lại của con chúa mà giao hoà thế gian với Chúa và ban thánh thần để tha tội. Xin thiên chúa dùng tác vụ của hội thánh mà ban cho ông (bà, anh, chị, con) ơn tha thứ và bình an. Vậy tôi (tha) tha tội cho ông (bà, anh, chị, con) nhân danh Cha + và Con và Thánh Thần. Amen”
[1] Một cuốn giáo lý thế kỷ thứ nhất – Didache /ˈdɪdəkeɪ, -ki/; Hy ngữ: Διδαχή,) là một trong những bộ sưu tập sớm nhất của các tác phẩm Kitô giáo, và thường được kết hợp với Tân Ước trong Giáo Hội sơ khai.
[2] Brown, Raymond Edward, The Epistles of John, Garden City, N.Y. : Doubleday 1982, trang 208
[3] Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hòa giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hòa giải.
[4] Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
[5] Đọc thêm chủ đề: Xác minh Bí tích Giải tội bằng văn phạm Kinh thánh. https://gpquinhon.org/q/than-hoc/xac-minh-bi-tich-giai-toi-bang-van-pham-kinh-thanh-4648.html
[6] Codex Iuris Canonici – Bộ Luật của Giáo Hội Công Giáo Latinh