Triết gia người Pháp Rene Descartes (1596-1650) đã cố gắng đặt kiến thức trên một nền tảng vững chắc, không thể nghi ngờ bằng cách áp dụng một phương pháp nghi ngờ bác bỏ bất cứ điều gì được cho là không chắc chắn là sai.
Descartes lý luận theo một dạng chủ nghĩa hoài nghi cực đoan khiến mọi niềm tin mà ông coi là đương nhiên, chẳng hạn như có một thế giới vật chất của các đồ vật, các tâm trí khác, rằng bản thân ông có một cơ thể, v.v., mở ra cho sự nghi ngờ. Hơn nữa, ông lý luận rằng mặc dù ông có thể nghi ngờ những niềm tin này nhưng ông không thể áp dụng sự nghi ngờ này vào sự tồn tại của chính mình. Descartes kết luận rằng bản thân ông phải tồn tại thì mới nghi ngờ được sự tồn tại của mình. Descartes lập luận rằng điều này là không thể tránh khỏi và ông giải thích nó như sau:
“Tôi đã thuyết phục bản thân mình rằng hoàn toàn không có gì trên thế giới, không có bầu trời, không có trái đất, không có tâm trí, không có cơ thể. Có phải bây giờ tôi cũng không tồn tại? Không: nếu tôi thuyết phục được bản thân về điều gì đó thì chắc chắn tôi đã tồn tại. Nhưng có một kẻ lừa dối có quyền lực tối cao và xảo quyệt đang cố tình và liên tục lừa dối tôi. Trong trường hợp đó, chắc chắn tôi cũng tồn tại, nếu ông ấy lừa dối tôi; và để ông ấy lừa dối tôi nhiều nhất có thể, ông ấy sẽ không bao giờ cho rằng tôi chẳng là gì chừng nào tôi còn nghĩ rằng tôi là một thứ gì đó. Vì vậy, sau khi xem xét mọi thứ rất kỹ lưỡng, cuối cùng tôi phải kết luận rằng mệnh đề này, tôi là, tôi tồn tại, nhất thiết phải đúng bất cứ khi nào nó được tôi đưa ra hoặc hình thành trong đầu tôi”[efn_note]Newman, Lex. 1997. Descartes’ Epistemology[/efn_note]
Vì vậy, Descartes viết, “Cuối cùng tôi phải kết luận rằng mệnh đề ‘tôi tồn tại’ nhất thiết phải đúng bất cứ khi nào nó được tôi đưa ra hoặc được hình thành trong tâm trí tôi”. Theo quan điểm này, chính sự thật mà tôi đang suy nghĩ gợi ý rằng phải có một cái gì đó tham gia vào hoạt động đó, cụ thể là cái “tôi”. Descartes đã trình bày kiến thức không thể nghi ngờ này trong cuốn Cogito, ergo sum nổi tiếng của ông: “Tôi tư duy nên tôi tồn tại”.
Descartes không dừng lại ở đó khi ông sử dụng nguyên lý của mình để chứng minh sự tồn tại của những thứ khác. Ông ấy nhảy từ Cogito của mình sang sự đáng tin cậy của nhận thức trí tuệ và sau đó là sự tồn tại của một sinh vật hoàn hảo trong Chúa, điều mà ông ấy tin là một ý tưởng bẩm sinh.
Sự chỉ trích của Cogito
Mặc dù Cogito của Descartes có vẻ hợp lý nhưng không phải tất cả các triết gia đều đồng ý rằng nó đúng.
Một sự phản đối phổ biến là Descartes đã tuyên bố quá nhiều khi ông đưa cái “tôi” (một cái tôi thực chất) vào phương trình. Bertrand Russell phản đối rằng từ ‘tôi’ là “bất hợp pháp” và Descartes lẽ ra nên phát biểu tiền đề của mình dưới dạng “có những suy nghĩ”. Theo Russell, điều đó sẽ không giả định trước sự tồn tại của một ý thức thống nhất có những suy nghĩ trước khi bắt đầu chứng minh rằng một ý thức thống nhất như vậy tồn tại. Ví dụ: có sự khác biệt lớn giữa câu “Có đau” và “Tôi đau”. Tương tự, có sự khác biệt đáng kể giữa câu “Có những suy nghĩ” và “Tôi đang suy nghĩ”. Russell lập luận, nhưng Descartes chỉ được hưởng quyền đầu tiên và không được đảm bảo chuyển từ “có những suy nghĩ” sang “Tôi tư duy, do đó tôi tồn tại”. Một lời chỉ trích như vậy gợi ý rằng kiến thức duy nhất không thể nghi ngờ là sự tồn tại của các suy nghĩ, trong khi sự tồn tại của một “bản ngã” hay một cái tôi là đáng nghi ngờ.
Một số người tin rằng để hiểu rõ hơn về dòng logic, Cogito nên được trình bày thành một tam đoạn luận. Sau đây đã được đề xuất:
P1: Tôi nghĩ
P2: Bất cứ cái gì có tính chất suy nghĩ đều tồn tại
P3: Tôi tồn tại.
Nhưng ở đây, một lỗ hổng trong lập luận trở nên rõ ràng ở chỗ nó mang tính vòng vo. Ngụy biện này xảy ra khi các tiền đề của lập luận giả định, một cách công khai hoặc ngấm ngầm, kết luận cần được chứng minh. Cogito cam kết điều này như thế nào? Nó làm như vậy bằng cách giả sử rằng tôi đã tồn tại (P1) để kết luận trong P3 rằng tôi tồn tại. Descartes giả định điều ông cố gắng chứng minh, đó là tồn tại một con người cụ thể có khả năng suy nghĩ.