Bối cảnh của trình thuật Tin Mừng hôm nay liên quan đến Thánh Gia và lề luật Thiên Chúa đã truyền cho dân riêng của Ngài.
-
Lề Luật của Thiên Chúa là cách Thiên Chúa giữ chúng ta gần Ngài
Cách nào đó chúng ta rất dễ quên đi căn tính Do Thái của Thánh Gia. Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu là một gia đình Do Thái, sinh sống trên đất Do Thái, thực hành đạo Do Thái. Theo Lề Luật của người Do Thái, mọi con trai phải chịu cắt bì: “Đây là giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ: mọi đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì…Sinh được tám ngày, mọi con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì…” (Stk 17: 10-12). Cha Mẹ Chúa Giêsu đã thực hiện cho Ngài đúng theo Lề Luật: “Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Ngài trước khi Ngài được thụ thai trong lòng mẹ” (Lc 2:21). Bốn mươi ngày sau khi sinh, người mẹ được thanh tẩy trong Đền thờ và dâng lễ vật – một con cừu non đối với người giàu, hai con chim bồ câu đối với người nghèo (Lêvi 12: 2-8). Ở đó, cha mẹ đứa trẻ sẽ dâng lễ vật lên Thiên Chúa để chứng tỏ đứa trẻ thuộc về Thiên Chúa: “Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” ((Lc 2:23).
Đọc bài trình thuật này trong Lễ Thánh Gia, chúng ta có xu hướng dừng lại ở ba con người: Chúa Giêsu, Mẹ Maria, và Thánh Giuse. Ba con người này tạo nên một gia đình, một gia đình thánh. Nhưng điều gì làm cho các Ngài nên thánh? Lễ Thánh Gia muốn nói với chúng ta điều gì? Chính sự trung thành của các Ngài với Lề Luật Thiên Chúa truyền mới là điều trình thuật nhấn mạnh. Trình thuật không dưới ba lần đề cập đến các yêu cầu của Lề Luật, “khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê” (Lc 2:22), “như đã chép trong Luật Chúa” (Lc 2: 23), “để chu toàn tập tục Luật đã truyền” (Lc 2: 27). Các Ngài lên đền thờ, sẵn sàng thực hiện các nghi thức dâng tiến: “bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa” (Lc 2: 22).
Tuy Chúa Giêsu là Đấng Mêsia – Đấng Thiên Sai – của người Do Thái, và cũng là vị cứu tinh của chúng ta, như ông Simêon lên tiếng chúc tụng: “Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài” (Lc 2: 30). Nhưng vì Ngài được sinh ra dưới Lề Luật Do Thái giáo nên Ngài tuân theo Lề Luật đó.
Thái độ của tôi như thế nào khi nói đến việc tuân giữ Lề Luật của Thiên Chúa và của Hội Thánh của Chúa? Khi ấy, tôi có khát khao muốn ở gần Thiên Chúa Cứu Độ không?
-
Cốt tủy của Lề Luật là lòng khao khát Thiên Chúa.
Chúng ta thường dửng dưng với lề luật và thậm chí coi thường lề luật. Mẹ Maria và Thánh Giuse lên Giêrusalem theo lề luật, để dâng Chúa Giêsu cho Thiên Chúa và dâng của lễ theo điều đã chép trong lề luật. Tuy nhiên, điều căn cốt mà chúng ta hay quên, lại ẩn dấu đằng sau việc chu toàn lề luật qui định, ở sâu kín trong cõi lòng mỗi người, đó là lòng khao khát Thiên Chúa.
Chúa Giêsu được đưa vào đền thờ, không phải chỉ với tư cách là một trẻ thơ thụ động nhưng đó là sự hiện thân của Thiên Chúa Cha khao khát yêu thương nhân loại.
Mẹ Maria và Thánh Giuse lên Giêrusalem, dù theo lề luật, để dâng Chúa Giêsu cho Thiên Chúa, nhưng đó là lòng khao khát tìm gặp Thiên Chúa, nhất là sẵn sàng vâng theo Thánh ý của Thiên Chúa. Không lâu trước đó, Thánh Giuse đã không “làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” đó sao (Mt 1: 24)? Mẹ Maria, cũng vậy, đã không thưa với sứ thần của Thiên Chúa “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” đó sao (Lc 1: 39)? Không chỉ như thế, Mẹ Maria còn ngợi khen chúc tụng quyền năng và vinh quang Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi…Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1: 46-49).
Ông Simêon được Thánh Thần hướng dẫn: “Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Israel, và Thánh Thần hằng ngự trên ông” (Lc 2:25) Nhưng không chỉ lòng sùng đạo đã đưa ông đến đền thờ mà còn là lòng khao khát “được thấy Đấng Kitô của ThiênChúa” (Lc 2:26).
Bà Anna “không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa” (Lc 2:37). Đây không phải là một quy định của Lề Luật buộc bà phải sống như vậy, cũng chẳng phải bà ưa thích lối sống khổ hạnh. Nhưng tất cả vì lòng khao khát “mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem” (Lc 2:38).
Lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thờ, đôi khi được gọi là Lễ Gặp Gỡ, là một lễ thể hiện lòng khao khát: Thiên Chúa khao khát gặp gỡ con người và con người khao khát gặp gỡ Thiên Chúa. Khao khát sâu sắc nhất của chúng ta là hiểu biết và được biết đến. Điều đó thực sự xảy ra trong mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa: hiểu biết Thiên Chúa và được Thiên Chúa biết đến. Loại hiểu biết này căn bản là của trái tim chứ không phải của tri thức. Đó là sự hiệp nhất chúng ta với Thiên Chúa trong cõi lòng, giải thoát chúng ta khỏi màn đêm vô tri của cuộc đời đầy đa đoan cực khổ, nhưng lại không biết đi về đâu sau kiếp người cùng khổ và chết chóc! Sự hiệp nhất đó cho phép chúng ta bước đi bình an trong “lòng thương xót của Chúa” là “Đấng Toàn Năng giơ tay biểu dương sức mạnh, làm biết bao điều cao cả cho những ai kính sợ Ngài”, như Mẹ Maria đã ngợi khen (Lc 1:49-51).
Để đạt tới điều này, chúng ta cần dâng hiến cho Thiên Chúa toàn bộ con người của chúng ta với tất cả sự hiện hữu mong manh, dễ bị tổn thương, đầy truân chuyên, nhất là một trái tim rộng mở và khao khát. Trái tim đó là đền thờ nơi chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa Cứu Độ. Chính trong cõi lòng khao khát như thế mà ngày xưa Mẹ Maria và Thánh Giuse đã đến tiến dâng Chúa Giêsu cho Thiên Chúa. Chính trong cõi lòng khao khát như thế mà ông Simêon đã “lên Đền Thờ vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới” (Lc 2:27) và “ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 2:27-32). Và chính trong cõi lòng khao khát như thế mà bà Anna đã “tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem” (Lc 2: 38). Đền thờ Giêrusalem hay bất cứ đền thánh, nhà thờ nào hiện nay, đều cần thiết và quan trọng, nhưng cũng chỉ là biểu tượng hữu hình khả giác. Đền thánh hay nhà thờ liệu mang lại ơn ích gì nếu tôi có mặt trong đó nhưng đền thờ lòng tôi vẫn đóng kín và u tối không một chút tin tưởng, khát khao hướng về Thiên Chúa? Thánh Phaolô đã đặt câu hỏi: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” Rồi ngài quả quyết: “Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1 Cr 6: 19-20).
Khao khát là mong muốn hiện diện trọn vẹn và chú tâm mong đợi. Khao khát vì mong chờ yêu thương và được yêu thương. Đôi khi chúng ta quá vội vàng dập tắt những khao khát của lòng mình hướng về Thiên Chúa, khỏa lấp nó bằng những thỏa mãn vật chất bên ngoài, vốn không bao giờ đưa chúng ta vào đền thờ cõi lòng sâu thẳm của chúng ta, nhưng trì kéo chúng ta ở lại với vô vàn những đa đoan xô bồ bên ngoài. Điều đó khiến cuộc sống của chúng ta nên hời hợt, trống rỗng và chúng ta cứ bám víu vào hết “mong muốn chóng qua” này đến “ảo vọng xa vời” khác, không bao giờ cảm thấy “được an bình ra đi”. Tuy nhiên, lòng khao khát “được thấy ơn cứu độ”, nếu xác tín và kiên vững, sẽ luôn đưa chúng ta đến đền thờ, nơi chúng ta gặp được Thiên Chúa, và chúng ta sẽ khám phá ra rằng mình đã “ẵm lấy Hài Nhi trên tay”.
-
Lòng khao khát được biểu lộ trong cầu nguyện, với tâm tình chúc tụng
Simêon “chúc tụng Thiên Chúa rằng: Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi” (Lc 2:29-32). Chúc tụng là một hình thức cầu nguyện vui tươi. Simêon dường như không mệt mỏi với đời sống cầu nguyện của mình. Đôi khi, trong lúc cầu nguyện, chúng ta cảm thấy như chúng ta đã nói tất cả với Chúa rồi – những khó khăn, tội lỗi, thất bại của chúng ta. Hôm nay, tất cả những điều đó dường như không khác gì mấy so với năm ngoái. Chúng ta có thể cảm thấy mệt mỏi với tất cả những điều không thay đổi đó, với con người của chính mình. Nhưng Simêon không ngừng chúc tụng và tạ ơn vì Simêon “được Thần Khí thúc đẩy” (Lc 2:27). Tâm hồn tôi có cởi mở để cho Chúa Thánh Thần thúc đẩy không, hay tôi có quá nhiều khó khăn và nhu cầu đến nỗi không còn khoảng khắc nào dành cho Chúa Thánh Thần và nghỉ ngơi bình an trong Ngài? Có rất nhiều điều chúng ta có thể chúc tụng Chúa, nhất là chúc tụng sự kỳ diệu nơi chính con người chúng ta. Đó có thể là tất cả những gì Chúa muốn nơi chúng ta: lời cầu nguyện trong mệt nhọc của những người già, của những người trung niên thất bại khi theo đuổi trần thế, của những thanh thiếu niên hụt hẫng chuyện tình cảm… Cầu nguyện là đặt ngày hôm qua, hay đặt cả phần đời quá khứ của mình vào “lời Ngài đã hứa” (Lc 2:29), và để cho Thiên Chúa, trong những năm tháng sắp tới, giúp “chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân” (Lc 2: 30-31). Như Simêon chúng ta “chúc tụng vinh quang” Thiên Chúa, như Anna chúng ta nhìn Chúa Giêsu và “cảm tạ Chúa”. Hôm nay chúng ta có thể làm như vậy khi cầu nguyện, bất kể chúng ta ở độ tuổi nào, trong tin tưởng và sẵn sàng “ra đi mà không biết mình đi đâu” vì “Đấng đã hứa là Đấng trung tín… có quyền năng cho người chết trỗi dậy” như Thánh Phaolô viết trong bài đọc thứ hai (Hípri 11: 8, 11, 19).
Phêrô Phạm Văn Trung.